Artwork

Player FM - Internet Radio Done Right

21,753 subscribers

Checked 1d ago
Додано nine років тому
Вміст надано France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Весь вміст подкастів, включаючи епізоди, графіку та описи подкастів, завантажується та надається безпосередньо компанією France Médias Monde and RFI Tiếng Việt або його партнером по платформі подкастів. Якщо ви вважаєте, що хтось використовує ваш захищений авторським правом твір без вашого дозволу, ви можете виконати процедуру, описану тут https://uk.player.fm/legal.
Player FM - додаток Podcast
Переходьте в офлайн за допомогою програми Player FM !
icon Daily Deals

Tạp chí âm nhạc

Поширити
 

Manage series 130292
Вміст надано France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Весь вміст подкастів, включаючи епізоди, графіку та описи подкастів, завантажується та надається безпосередньо компанією France Médias Monde and RFI Tiếng Việt або його партнером по платформі подкастів. Якщо ви вважаєте, що хтось використовує ваш захищений авторським правом твір без вашого дозволу, ви можете виконати процедуру, описану тут https://uk.player.fm/legal.

Góc vườn âm nhạc của RFI

  continue reading

93 епізодів

Artwork

Tạp chí âm nhạc

21,753 subscribers

updated

iconПоширити
 
Manage series 130292
Вміст надано France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Весь вміст подкастів, включаючи епізоди, графіку та описи подкастів, завантажується та надається безпосередньо компанією France Médias Monde and RFI Tiếng Việt або його партнером по платформі подкастів. Якщо ви вважаєте, що хтось використовує ваш захищений авторським правом твір без вашого дозволу, ви можете виконати процедуру, описану тут https://uk.player.fm/legal.

Góc vườn âm nhạc của RFI

  continue reading

93 епізодів

Усі епізоди

×
 
Claire d'Asta, một nghệ danh vang vọng như một tiếng thì thầm dịu dàng nhưng đầy mãnh lực quyến rũ trong vườn nhạc. Ca sĩ kiêm tác giả người Pháp có phong cách kín đáo, nhưng vẫn để lại dấu ấn khá quan trọng trong dòng nhạc Pháp đầu những năm 1980. Tên tuổi của Claire d'Asta được gắn liền với giai điệu « Avec l'amour en plus », bài hát này từng được dịch sang tiếng Việt thành nhạc phẩm « Tình anh tha thiết ». Sinh trưởng tại miền nam nước Pháp (1953), Claire d'Asta ban đầu vào nghề như một tác giả trước khi nổi danh nhờ giọng ca. Từ thuở thiếu thời, Claire d'Asta học đàn tại nhạc viện thành phố Marseille, khi lớn lên cô được đào tạo thanh nhạc với một danh ca làng kịch opéra, Christiane Castelli. Sau khi tốt nghiệp vào năm 21 tuổi, cô được nam ca sĩ Christian Delagrange mời đi hát chung trên các sân khấu lớn ở Pháp trong bốn năm liền. Đây là giai đoạn Claire d'Asta sáng tác nhiều ca khúc đầu tay, trong đó có nhạc phẩm « Fais moi rêver » (Người dệt mộng cho ta). Đầu những năm 1980, vào lúc phong trào nhạc pop và disco đang ngự trị trên làn sóng radio, một giọng hát êm dịu sâu lắng nhẹ nhàng cất lên, khơi dậy ngọn lửa đam mê nhờ một giai điệu êm đềm tưởng chừng đã quên. Nhạc phẩm « La Chanson de Prévert » , do nhạc sĩ Serge Gainsbourg sáng tác cho Yves Montand hai thập niên trước đó (1961), bỗng dưng thịnh hành trở lại. Nhờ tài nghệ diễn đạt tinh tế nhạy cảm, Claire d'Asta đã giúp công chúng Pháp khám phá lại bài hát nổi tiếng của tác giả Gainsbourg, nay đã trở nên kinh điển. Một bài hát của một giọng ca hầu như không theo thời, tưởng chừng ít có cơ hội, nào ngờ lại thành công vang dội. Sau khi ăn khách trên thị trường Pháp, bài hát này còn đoạt giải thưởng của ban giám khảo nhân kỳ Liên hoan Âm nhạc Tokyo năm 1982. Thành công này mở đường cho Claire d'Asta hợp tác với nhiều tên tuổi lớn. Chính nhạc sĩ Michel Mallory, tác giả chuyên soạn nhạc cho nam danh ca Johnny Hallyday, đã thuyết phục Claire d'Asta ghi âm với giọng hát của mình, thay vì chỉ đơn thuần viết nhạc. Hai nghệ sĩ này hợp tác với nhau trong 8 năm liền, Claire d'Asta thể hiện tài tình những giai điệu của Michel Mallory, trong đó có nhiều bài hát ăn khách như « Une nuit de ta vie » (Chỉ còn một đêm trong đời), « Dans la maison de mon père » (Trong ngôi nhà của cha tôi) hay « J'ai pleuré sur ma guitare » ( Nước mắt trên cung đàn) song ca với Johnny Hallyday ….. Vào giữa những năm 1990, Claire d'Asta lập gia đình và thành hôn với nhạc sĩ Jean Musy. Sau một thời gian dài ghi âm và đi biểu diễn, cả hai chuyển hướng sang ngành sáng tác nhạc phim. Cặp nghệ sĩ này đã đồng hành cùng nhau trong gần ba thập niên liền cho đến khi ông Jean Musy qua đời vì bạo bệnh vào năm 2024. Quan hệ hợp tác chặt chẽ thân thiết này đã cho ra đời nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó có giai điệu « Cuore addolorato » (Trái tim đau buồn), nhạc phẩm chủ đề của bộ phim « L'Ange noir » của đạo diễn Jean Claude Brisseau, với thần tượng nhạc Pháp Sylvie Vartan và nam diễn viên Michel Piccoli trong vai chính. Hiện giờ, Claire d'Asta đã giải nghệ sân khấu nhưng cô vẫn tiếp tục đi hát nhân các kỳ liên hoan, mở lớp dạy nhạc, truyền lửa cho thế hệ sau tại (thị trấn Louveciennes) vùng ngoại ô Paris. Trong số các bản nhạc nổi tiếng ru hồn giới yêu nhạc của Claire d'Asta, có giai điệu « Avec l'amour en plus » (Yêu không hối tiêc). Trong tiếng Việt, bài hát này từng được phóng tác với nhiều lời khác nhau. Lời đầu tiên của tác giả Vũ Xuân Hùng, chuyển thành nhạc phẩm « Tình anh tha thiết » do các nghệ sĩ như Kiều Nga hay Thiên Kim ghi âm. Lời thứ nhì là của tác giả Thái Thịnh mang tựa đề « Tình yêu còn lại » do hai ca sĩ Don Hồ và Lam Anh trình bày. Trong tim còn lại bao kỷ niệm, thời gian tưởng chừng khó lay chuyển. Ngày thơ ấu tình yêu chưa đến, tuổi xuân hai định mệnh gắn liền. Đành rằng mọi thứ cũng sẽ tan, tháng năm tươi tắn cũng chẳng còn.…
 
Tại Pháp, giới trẻ lớn lên trong hai thập niên 1980-1990 đều biết đến chương trình giải trí Club Dorothée (Câu lạc bộ Dorothée) và loạt phim truyền hình nhiều tập « Premiers baisers » (Những nụ hôn đầu) do công ty AB Productions sản xuất. Từ các chương trình này, có hai gương mặt sau đó trở nên nổi tiếng nhờ ghi âm nhiều ca khúc : Hélène Rollès và Christophe Rippert. Sinh trưởng tại thị trấn Saint-Priest, vùng ngoại ô thành phố Lyon, Christophe Rippert ban đầu nuôi mộng trở thành một tay quần vợt chuyên nghiệp. Nhờ có vóc dáng cao ráo, khuôn mặt bảnh trai cho nên anh đã có dịp làm người mẫu chụp ảnh quảng cáo. Năm 22 tuổi (1991), Christophe Rippert bắt đầu làm diễn viên trong bộ phim truyền hình « Premiers Baisers » (Những nụ hôn đầu). Trong bộ phim nhiều tập này, mặc dù Christophe Rippert chỉ đóng một vai phụ (vai Luc) nhưng nhân vật này lại được khán giả đặc biệt yêu thích, đến mức nhà sản xuất Jean-Luc Azoulay đã đề nghị anh ghi âm một số bài hát, song song với việc đóng phim truyền hình. Ngay từ bước đầu, anh đã thành công ngay lập tức khi nhạc phẩm « Un amour de vacances », ca khú c chính của album đầu tay, lập kỷ lục số bán với hơn nửa triệu bản, đạt hai lần mức đĩa bạch kim. Album đầu tiên của Christophe Rippert được phát hành vào mùa hè năm 1993. Giống như những ca sĩ khác có ký hợp đồng với công ty AB, các bài hát của anh đều do hai nhạc sĩ Gérard Salesses và Jean-François Porry (bút danh của Jean-Luc Azoulay) sáng tác. Cặp bài trùng này chuyên soạn nhạc cho Hélène Rollès (Je m'appelle Hélène), Emmanuelle Mottaz (Premiers Baisers) hay Christophe Rippert (La vie sans toi / Nếu không còn em) Vào năm 25 tuổi, khi vai diễn của anh trong loạt phim « Những nụ hôn đầu » ngày càng trở nên quan trọng, Christophe Rippert cho ra mắt album phòng thu thứ hai mang tựa đề « À corps perdu » (Yêu hết mình). Mặc dù doanh thu lần này không cao bằng album đầu tiên, nhưng album thứ hai giúp cho các vòng lưu diễn của anh tại các sân khấu lớn thu hút đông đảo khán giả trẻ tuổi, nhà hát chật kín chỗ ngồi. Năm 1995 đánh dấu một số thay đổi quan trọng trong sự nghiệp của Christophe Rippert, sau 4 năm thành công liên tục trên kênh truyền hình TF1, bộ phim « Premiers baisers » (319 tập) kết thúc để nhường chỗ lại cho những bộ phim nhiều tập khác « Les Années fac / 1995» (Những năm tháng đại học) cũng như « Les Années bleues / 1998 » (Những năm tháng khởi nghiệp). Sở dĩ có sự thay đổi này là vì hầu hết các diễn viên « nhí » đều đã lớn lên, và khung cảnh trường đại học, cũng như sở làm hợp hơn với lứa tuổi trưởng thành của họ. Phần sau này tiếp tục thành công và các nhà sản xuất dành một vai diễn quan trọng hơn nữa cho Christophe Rippert. Đang trên đà thành công, anh phát hành album phòng thu thứ ba vào năm 1996. Nhưng vầng hào quang của Christophe Rippert bắt đầu bị lu mờ, những năm tháng thành công tột bực dường như đã qua. Album thứ ba gặp thất bại, trong khi trên màn ảnh nhỏ, loạt phim truyền hình thứ ba cũng không còn thu hút được nhiều khán giả, do vậy phim bị hủy bỏ dù chỉ mới quay được 22 tập, thay vì 200 tập như những mùa phim đầu. Christophe Rippert rời nghề ca hát sau khi hết hợp đồng với công ty AB Productions. Những năm sau đó anh cố gắng theo đuổi sự nghiệp diễn xuất, tham gia một số bộ phim truyền hình « Sous le soleil » (Dưới ánh nắng) đồng thời chuyển hướng sang nghề phân phối sản xuất, mở công ty quảng cáo xa xỉ phẩm. Sau hơn một thập niên vắng bóng, Christophe Rippert trở lại phòng thu để ghi âm album thứ tư mang tựa đề « Free » (Tự do), phát hành vào cuối năm 2012. Album này bao gồm 13 bản nhạc hoàn toàn bằng tiếng Anh, trong đó có nhạc phẩm « Summertime » chính là bản phóng tác của giai điệu tiếng Pháp « Un amour de vacances » (Chuyện tình nhân kỳ nghỉ hè) Có khá nhiều bài hát của Christophe Rippert từng được dịch sang tiếng Việt. Quen thuộc nhất vẫn là nhạc phẩm « Un amour de vacances » có nhiều lời phóng tác khác nhau. Lời thứ nhất mang tựa đề là « Giấc mơ sa mạc » của tác giả Lê Hựu Hà, nhưng cũng có nguồn ghi là của tác giả Khúc Lan. Bài này thường được trình bày dưới dạng song ca qua các tiếng hát của Quang Dũng, Thanh Thảo hay của Don Hồ Ngọc Huệ. Lời Việt thứ nhì do Lâm Nhật Tiến ghi âm và do Khúc Lan đặt lời, mang tựa đề « Yêu dấu xa vời ». Lời Việt thứ ba « Tình yêu ngày hè » là của tác giả Thủy Tiên …. Mùa hè thơm ngát hương say, con tim rung động ngất ngây, tình như cuốn vào vực thẳm, ngừng trôi vòng xoáy tháng ngày. Chuyện tình kỳ nghỉ mùa hạ, biết rằng chẳng có ngày mai, mỗi lần con tim nghĩ lại, u hoài nhung nhớ chưa phai ……
 
« Un temps pour elle » hiểu theo nghĩa Thời khắc cho nàng, là tựa đề album phòng thu thứ 11 của Michel Polnareff. Tập nhạc mới được giới hâm mộ háo hức mong đợi, vừa được phát hành trên thị trường Pháp trong tháng 04/2025. Để quảng bá cho album mới, trích đoạn đầu tiên là tình khúc mang tựa đề « Tu ne m'entends pas » (Người đâu còn nghe ta). Bao gồm 8 sáng tác mới, « Un temps pour elle » (Thời khắc cho nàng) đã được thực hiện trong vòng ba năm qua, nhân dịp Michel Polnareff lưu diễn tại Pháp và một số nước châu Âu. Ngồi một mình bên chiếc piano, ông vừa hát vừa tự đệm đàn, tạo được những khoảnh khắc gần gũi, cảm thông với những tâm hồn yêu nhạc. Yếu tố này khá quan trọng trong lối soạn album mới, hầu hết các sáng tác đều có những đoạn độc tấu dương cầm, ngón nghề sở trường của Michel Polnareff. Cách đây 7 năm, Michel Polnareff đã trở lại với album phòng thu thứ 10 đề tựa « Enfin », sau nhiều thập niên vắng bóng. Thế nhưng, trái với dự kiến, album này rốt cuộc lại không gặt hái thành công, có lẽ cũng vì tác giả có quá nhiều tham vọng, hội tụ trên cùng một album nhiều bản « giao hưởng », khiến người nghe dễ bị lạc mất giai điệu chủ đạo. Lần này, Michel Polnareff vẫn trung thành với hình ảnh người nghệ sĩ đeo gọng kính trắng, trở lại với một dự án ghi âm liền mạch mà vẫn đa dạng, dùng lối hòa âm tươi sáng để tạo nên « vòng thuần sắc » nhất quán. Đối với Michel Polnareff, đây là một album hoàn chỉnh và có nhiều ý nghĩa quan trọng sau một thời gian dài thử nghiệm tìm tòi trong sáng tác. Tập nhạc với lối sắp đặt như một « album concept » xen kẻ những đoạn hát với nhiều khúc nhạc không lời, thực sự phong phú trên hai phương diện, cả giai điệu lẫn hòa âm. Chẳng hạn như giai điệu chủ đạo « Người đâu còn nghe ta », một trong những bản nhạc yêu thích của tác giả, được trích từ một vở kịch opera mà Polnareff cho rằng ông không có đủ thời gian để hoàn thành tác phẩm. Để quảng bá cho album này, Michel Polnareff sẽ đi lưu diễn tại các nước Anh, Pháp, Luxembourg và Thụy Sĩ. Sau nhà hát Appollo Theatre tại Luân Đôn, danh ca người Pháp sẽ ghé Bruxelles và Lausanne và tìm lại người hâm mộ trên sân khấu Paris trong vòng nhiều đêm diễn vào mùa hè năm nay. Có nhiều khả nă ng đợt trình diễn sẽ kéo dài sang năm tới. Cũng xin nhắc lại vòng lưu diễn trước đó của Michel Polnareff đã diễn ra trong hơn một năm và đã thu hút hơn 150.000 lượt khán giả. Dù năm nay đã ngoài 80 tuổi, nhưng dường như Michel Polnareff vẫn chưa muốn giải nghệ thu âm hay giã từ ánh đèn sân khấu. Ngoài cái tài soạn giai điệu lọt tai (melody maker), ông còn có một chất giọng khá đặc biệt, tuy không còn thánh thót, cao vút như trước, nhưng vẫn đầy nét quyến rũ mềm mại. Có người nhận xét rằng Polnareff thường thích chơi chữ, còn bản thân ông gọi đó là thủ pháp « song thị » : một chữ hiểu theo hai nghĩa, một vật nhìn theo hai cách. Tựa đề « Un temps pour elle » gần giống trong lối phát âm chữ « Intemporel » (vượt thời gian) Thời khắc cho nàng, mà ở đây là « nàng thơ », để Michel Polnareff có thêm cảm hứng sâu lắng vô vàn, rồi viết lên những giai điệu say đắm dịu dàng. Rốt cuộc người nghệ sĩ cảm thấy mình không còn nhiều năm tháng, lại muốn chắp cánh cho sáng tác vượt thời gian.…
 
Năm 2025 đánh dấu đúng 40 năm ngày phát hành tình khúc « Nothing's gonna change my love for you », một trong những bản nhạc nổi tiếng nhất của thập niên 1980, nhờ lời lẽ giản dị, ca từ chân thành và giai điệu cực kỳ lắng đọng. Hầu hết người yêu nhạc đều biết dến bài này qua giọng ca của Glen Medeiros, từng được đặt thêm lời Việt thành nhạc phẩm «Tình mãi không rời ». « Nothing's gonna change my love for you » (hiểu theo nghĩa Không gì lay chuyển tình anh) là một bài hát do hai nhạc sĩ Michael Masser và Gerry Goffin đồng sáng tác. Bài này ban đầu do nam danh ca người Mỹ George Benson ghi âm cho hãng đĩa Warner Bros, trên album phòng thu mang tựa đề 20/20, đánh dấu 20 năm sự nghiệp của ông. Bản nhạc gốc được phát hành dưới dạng đĩa đơn trên thị trường Châu Âu vào mùa xuân năm 1985, nhưng không mấy thành công. Mãi đến hai năm sau, vào mùa hè năm 1987, khi ca sĩ trẻ tuổi người Mỹ Glenn Medeiros phát hành một phiên bản cover, thì bài hát này tuy là bản sao, nhưng lại gặt hái thành công trên toàn thế giới. Sinh trưởng tại bang Hawaii, Glenn Medeiros bắt đầu ca hát từ năm lên 10 tuổi. Đến năm 16 tuổi, anh đoạt giải nhất nhân một cuộc thi hát trên đài phát thanh địa phương. Nhờ vậy, anh được quyền ghi âm lại bản nhạc yêu thích nhất của mình là « Nothing's gonna change my love for you » . Lúc bấy giờ, Glenn còn là một học sinh trung học (trên đảo Kauai) cho nên anh không nghĩ rằng mính sẽ có cơ hội thành công trên thị trường Hoa Kỳ cũng như quốc tế. Một cách ngẫu nhiên, bài hát này lọt vào tai một giám đốc điều hành đài phát thanh ở Phoenix, bang Arizona. Nhờ vậy, Glenn Medeiros mới có cơ hội ký hợp đồng thu thanh với hãng đĩa MCA Records, bản cover của anh được phát hành trên toàn quốc. Vào đầu mùa hè năm 1987, bài hát này lọt vào Top Ten thị trường Mỹ, chỉ vài tuần trước khi Glen ăn mừng sinh nhật 17 tuổi. Vài tháng sau khi ăn khách trên thị trường Bắc Mỹ, bản nhạc này được phát hành rộng rãi trên khắp châu Âu, lập kỷ lục số bán so với bản gốc của George Benson, giành lấy vị trí quán quân tại vương quốc Anh, Ai Len, Pháp, Na Uy hay Hà Lan. Trên đà thành công này, Glenn Medeiros vào năm 1988 ghi âm đĩa đơn thứ nhì « Un roman d'amitié » , với ca sĩ trẻ tuổi người Pháp Elsa Lunghini. Phiên bản tiếng Pháp nói về tình bạn của lứa tuổi mới lớn trong khi bản gốc tiếng Anh « Love always finds a reason » (do Diane Warren sáng tác) lại đơn thuần nói về chủ đề tình yêu. Trong tiếng Việt, bài này từng được đặt thêm lời thành nhạc phẩm « Đôi bạn » do đôi nghệ sĩ Ngọc Lan và Công Thành, cũng như do Khánh Hà và Anh Tú song ca. Glenn Medeiros có đủ ngoại hình và chất giọng để trở thành một thần tượng nhạc trẻ. Những bước đầu thành công đã đưa anh đi biểu diễn khắp thế giới, nhưng dường như Glenn không nuôi mộng trở thành một ngôi sao nhạc pop bằng mọi giá, hay ít ra hào quang danh vọng không làm cho anh bị mù quáng. Sau vài bản nhạc ăn khách đầu những năm 1990, Glenn chuyển qua sáng tác cho các nghệ sĩ khác. Sau khi tốt nghiệp đại học, anh chọn nghề giáo viên và kể từ năm 2017, anh trở thành hiệu trưởng trường Saint Louis gần thành phố Honolulu. Về phần nam danh ca George Benson, ông từng ghi âm hai bản nhạc gốc mà sau đó lại thành công vượt trội qua các giọng ca khác. Chẳng hạn như bài « The Greatest love of all » (cũng do Michael Masser đồng sáng tác) từng lập kỷ lục số bán vào năm 1986 với giọng ca thần tượng Whitney Houston. Trong tiếng Việt, bài này được tác giả Phú Quang đặt lời thành nhạc phẩm « Với tất cả tình yêu » do nữ danh ca Thanh Lam trình bày. Không hiểu vì sao bản nhạc gốc « Nothing's gonna change my love for you » lại không thành công dù bài này được George Benson hát rất hay, trong khi giọng ca bè trong phần điệp khúc không ai nào khác ngoài Richard Marx, thành danh tột bực vài năm sau đó với nhạc phẩm « Right here waiting » (Nơi đây anh vẫn chờ, lời Việt của tác giả Lữ Liên). Trong tiếng Việt, « Nothing's gonna change my love for you » có khá nhiều lời phong tác. Lời đầu tiên là « Tình em muôn đời » không ghi rõ tác giả, do Ngọc Hương trình bày. Lời thứ nhì là « Cuộc tình giữ mãi cho nhau » của tác giả Nhật Ngân qua tiếng hát của Kenny Thái. Lời thứ ba « Không gì thay đổi tình ta » của tác giả Sỹ Đan. Lời thứ tư là « Tình mãi không rời » do ca sĩ Chung Tử Lưu tự sáng tác rồi ghi âm. Khi tình không còn bên cạnh Trọn đời im lặng vắng tanh Ngày buồn hao gầy trống trải Đường khuya hoang vắng ngõ dài Cho dù muôn kiếp hiu quạnh Không gì lay chuyển tình anh…
 
Trong làng nhạc chuyên nghiệp, hầu hết các nghệ sĩ biết sáng tác, trước khi trở nên nổi tiếng, đều phải trải qua nhiều năm trau dồi tay nghề. Trường hợp của Jean-Jacques Goldman cũng không phải là ngoại lệ. Trước khi thực sự thành danh vào năm 1982, anh đã có một thời gian sáng tác cho nhiều ca sĩ khác. Giai điệu « Tout, tout doucement », lời Việt là « Người yêu thứ nhất » nằm trong giai đoạn đầu đời của tác giả Goldman. Các nguồn tin trên mạng cung cấp không nhiều thông tin về những năm tác giả Jean-Jacques Goldman mới vào nghề. Sau hơn 4 năm tham gia ban nhạc rock Tài Phong, do hai nghệ sĩ gốc Việt Khánh Mai và Tài Sinh sáng lập, Jean-Jacques Goldman khởi nghiệp solo lúc anh gần 30 tuổi, nhưng chủ yếu sáng tác nhạc cho người khác, chứ anh không có ý định làm ca sĩ. Những bản ghi âm của anh trước năm 1979 chủ yếu là những bản nhạc rock bị nhóm Tài Phong từ chối, chẳng hạn như Les nuits de solitude (Những đêm cô đơn). Đây cũng là giai đoạn Jean-Jacques Goldman chuyển dần lối sáng tác từ tiếng Anh sang tiếng Pháp, sau các nhạc phẩm như « Highfly » hay « Tell me why » dưới bút danh First Prayer, anh sáng tác các giai điệu như « Gros câlin blues » và « Fais moi des sourires » cho nữ ca sĩ Anne-Marie Batailler, nhạc phẩm « Nous, on y va », được Elli Medeiros ghi âm với nghệ danh Jocko. Trong giai đoạn những năm 1978-1981, Goldman đã viết khoảng 20 bài hát bằng tiếng Pháp dưới nhiều bút danh khác nhau, ngoài First Prayer (Lời nguyện cầu đầu tiên), còn có Sweet Memories (Những kỷ niệm ngọt ngào). Jean-Jacques Goldman sáng tác một số bài hát cho nữ ca sĩ trẻ tuổi Jane Surrey. Sinh trưởng tại Anh, Jane có một khuôn mặt thùy mị dễ thương, chất giọng tuy không mạnh nhưng nụ cười có duyên và lối diễn đạt nhí nhảnh. Jane đến với nghề ca hát một cách khá tình cờ. Sau một thời gian đi du học ở Pháp, Jane Surrey chọn ở lại Paris và bắt đầu làm thư ký trong một hãng đĩa độc lập, nơi cô gặp khá nhiều nghệ sĩ Anh-Mỹ (như Stray Cats, Alan Parson, Joe Jackson) nhưng Jane không nghĩ rằng cô cơ hội thành danh. Cho đến một ngày kia, một trong những nhà sản xuất Pháp quyết định thực hiện đĩa nhạc đầu tiên (45 vòng) của Jane. Nhờ vậy, cô được giới thiệu với tác giả Jean-Jacques Goldman và ghi âm một số sáng tác đầu tay của anh, trong đó có giai điệu ngọt ngào, lãng mạn « Tout, tout doucement ». Cho dù Jane Surrey sau đó không thành công với nghề sân khấu, nhưng Paris lại trở thành quê hương thứ hai của cô ca sĩ người Anh. Trong tiếng Việt, nhạc phẩm « Tout, tout doucement » có nhiều lời phóng tác khác nhau. Lời đầu tiên là của tác giả Phạm Duy, mang tựa đề « Người yêu thứ nhất » do các danh ca Ngọc Lan, Ngọc Huệ, Kiều Nga trình bày. Lời thứ nhì là giai điệu « Chuyện tình của em » của tác giả Khúc Lan, do nữ ca sĩ Kỳ Phương Uyên ghi âm. Những giai điệu mà Jean-Jacques Goldman từng viết cho Anne Marie, Émilie Bonnet hay Jane Surrey đều không thành công như dự kiến. Thế nhưng, đó sẽ là lần cuối cùng Jean-Jacques Goldman gặp thất bại. Tuy không ăn khách, nhưng những bài hát đầu tay của anh lọt vào tai nhà sản xuất trẻ tuổi Marc Lumbroso, lúc bấy giờ đang tìm kiếm những tài năng mới. Nhà sản xuất người Pháp tin tưởng vào tiềm năng của Jean-Jacques Goldman, thuyết phục anh sáng tác và tự trình bày nhiều bài hát của mình, rồi sau đó giới thiệu các bản ghi âm thử cho các hãng đĩa thời bấy giờ. Sau những bước đầu không mấy thành công với Warner, Jean-Jacques Goldman nhờ vào sự khuyến khích của Marc Lumbroso giành lấy được hợp đồng ghi âm 5 album, cho hãng đĩa Epic, một chi nhánh của tập đoàn CBS. Giai đoạn khởi nghiệp không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Album đầu tay của Jean-Jacques Goldman bao gồm 11 sáng tác mới, lúc đầu anh muốn đặt tựa là « Démodé » (Lỗi thời). Nhưng ban tiếp thị của CBS không đồng ý với tựa đề này, cho nên khi album được phát hành vào mùa thu năm 1981, lại không hề có ghi tựa đề nào. Dù vậy, Jean-Jacques Goldman gặt hái thành công đầu tiên với hơn nửa triệu bản của nhạc phẩm « Il suffira d'un signe ». Có lẽ những bản nhạc đầu tay chưa đủ sâu sắc, tài năng của anh chưa chín muồi để thành công, nhưng cũng từ đó mà tác giả Jean-Jacques Goldman rút kinh nghiệm sáng tác trong thể loại pop rock, để chọn đúng hướng đi sau đó cho bản thân. Sự nghiệp của anh cất cánh từ năm 1982 trở đi, trong vòng hai thập niên liền, Jean-Jacques Goldman ngự trị trong làng nhạc Pháp, thành công nhờ chất giọng cũng như ngòi bút sáng tác. Từ đầu những năm 1990 trở đi, hầu hết các nghệ sĩ trứ danh nhất đều nhờ đến cái tài soạn nhạc của anh : Céline Dion, Patricia Kaas, Florent Pagny hay Patrick Fiori. Và cho dù anh đã giải nghệ từ hơn một thập niên qua, nhưng Jean-Jacques Goldman vẫn luôn đứng đầu danh sách những nhân vật nổi tiếng yêu thích nhất của người Pháp, có lẽ cũng vì rất nhiều bài hát của anh vẫn làm cho hàng triệu con tim say đắm ngất ngây, những giai điệu này đã thực sự đi vào lòng người, từ lúc nào không hay.…
 
Sinh thời, giọng ca mượt trầm của Roberta Flack rất hợp với những bản tình ca đầy cảm xúc, giai điệu hòa quyện nhiều thể loại, từ nhạc soul folk cho đến jazz và pop. Bà cũng là nghệ sĩ Mỹ đầu tiên đoạt giải Grammy dành cho Bản ghi âm xuất sắc nhất trong 2 năm liền. Giọng ca ấy giờ đây không còn nữa, Roberta Flack đã qua đời tại nhà riêng hôm 24/02/2025, hưởng thọ 88 tuổi. Sinh trưởng tại Bắc Carolina, Roberta Flack (1937-2025) xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc. Mẹ của bà là nghệ sĩ chơi đàn organ cho dàn đồng ca ở nhà thờ, cho nên từ khi còn nhỏ Roberta đã sớm học nhạc cổ điển. Nhờ có năng khiếu chơi đàn piano, cho nên vào năm 15 tuổi, bà trở thành sinh viên trẻ tuổi nhất, nhận được học bổng toàn phần chuyên khoa âm nhạc tại trường Đại học Howard. Sau khi tốt nghiệp đại học năm 19 tuổi, Roberta Flack bắt đầu đi dạy nhạc một thời gian. Roberta lúc đầu nuôi mộng trở thành nghệ sĩ trong làng nhạc opera nhưng sau đó lại nhận ra con đường này không hợp với mình. Để kiếm sống, ngoài công việc giảng dạy, Roberta Flack còn đi hát trong các phòng trà, hộp đêm vào những ngày cuối tuần. Đến năm 1968, tài nghệ chơi nhạc của bà lọt vào tai của một nhà sản xuất, nên được mời thu âm thử giọng cho hãng đĩa Alantic. Album phòng thu đầu tay của Roberta Flack được cho ra mắt vào năm 1969. Thế nhưng, các bản ghi âm này lại không bán chạy, cho đến khi đạo diễn kiêm diễn viên Clint Eastwood chọn nhạc phẩm « The First time ever I saw your face » do Roberta Flack trình bày (sáng tác của Ewan MacColl) làm ca khúc chủ đề cho bộ phim đầu tay của ông năm 1971 với tựa đề « Play Misty for me ». Mặc dù lúc bấy giờ đạo diễn Clint Eastwood chỉ trả 2.000 đô la để được quyền sử dụng bài hát, nhưng thành công của bộ phim lại giúp công chúng khám phá giọng ca Roberta Flack. Bản nhạc phim trở thành ca khúc thành công nhất trong năm 1972, giữ vị trí quán quân trong 6 tuần liên tục và nhận giải Grammy dành cho Bài hát xuất sắc nhất. Gần 3 năm sau ngày phát hành, album đầu tay của Roberta Flack cuối cùng cũng giành lấy hạng đầu thị trường Hoa Kỳ và đã bán được gần 2 triệu bản tại Bắc Mỹ. Từ đó, Clint Eastwood và Roberta Flack trở thành bạn thân, để cảm ơn Clint Eastwood đã tạo cho mình cơ hội thành công, Roberta Flack đã nhận lời thu âm bản nhạc chủ đề cho bộ phim « Sudden Impact » (trong loạt phim Dirty Harry) theo đề nghị của Clint Eastwood. Roberta Flack là một trong những giọng ca định hình nền âm nhạc phổ thông (pop music) trong thập niên 1970. Xen kẽ nguyên tác và các bản cover, bà đã nhiều lần thành công trên thị trường quốc tế với các nhạc phẩm như « Will you love me tomorrow », « Where is the Love » song ca với Donny Hathaway, « Tonight, I celebrate my love » (Dâng trọn tình yêu) với Peabo Bryson. Bài này từng được tác giả Trung Hành đặt thêm lời Việt và ghi âm cùng với nữ ca sĩ Ngọc Bích. Vào năm 1973, Roberta Flack tiếp tục thành công trên tột đỉnh khi phát hành bài hát « Killing me softly with his song » , ca khúc chủ đề của album cùng tên. Bài này đã đoạt cùng lúc hai danh hiệu quan trọng là Bản thu âm hay nhất và Màn biểu diễn nhạc pop xuất sắc nhất nhân kỳ trao giải Grammy năm 1974. « Killing Me Softly » do tác giả Charles Ira Fox soạn nhạc và do Norman Gimbel đặt lời. Cả hai gương mặt này đều là những tên tuổi lớn trong ngành công nghiệp giải trí. Vào giữa những năm 1960, Norman Gimbel đến Hollywood để lập nghiệp. Có một lần ngồi trong một quán nhạc uống rượu giải sầu, ông được nghe một nghệ sĩ nhạc blues biếu diễn. Chỉ trong một khoảnh khắc, tiếng đàn piano lại nói lên được tâm trạng chán đời của ông. Một cách vô tình, tác giả thật sự có cảm tưởng một người khác đang nói thay cho mình. Trong quyển sổ tay, Norman Gimbel ghi chép dòng chữ, ma lực vô hình nào từ phím đàn nỉ non ai oán, khiến hồn ta như thể bị giết dần, chết mòn. Bản nhạc « Killing Me Softly » từ đó mà nẩy sinh. Hầu như mọi người đều biết đến nhạc phẩm này qua giọng ca của Roberta Flack. Tuy vậy, người đầu tiên thu thanh bản nhạc này lại là nữ ca sĩ Lori Lieberman chứ không phải là Roberta, thế nhưng khi được phát hành vào mùa hè năm 1972, bài hát lại không thành công. Đến khi Roberta phát hành bản cover của mình vào đầu năm 1973, bài hát này lại phá kỷ lục số bán. Trong tiếng Việt, « Killing Me Softly » đã có nhiều phiên bản khác nhau. Trước năm 1975, bài từng được nhạc sĩ Lê Hựu Hà Việt hoá thành nhạc phẩm « Nỗi đau dịu dàng ». Lời Việt thứ nhì là của tác giả Vũ Xuân Hùng qua phần thể hiện của Vy Vân, giọng hát chính của ban tam ca Apple Three (Ba Trái Táo). Gần đây hơn, có lời phóng tác thứ ba của ca sĩ kiêm tác giả Nguyễn Thảo với nhạc phẩm « Dịu dàng giết chết tôi ». Lời Việt thứ tư là của tác giả Nguyễn Hoàng Đô với tựa đề « Nỗi chết dịu êm ». Trong suốt sự nghiệp, Roberta Flack đã ghi âm 17 album, nhận 5 giải Grammy trong số 14 đề cử, kể cả danh hiệu Thành tựu sự nghiệp vào năm 2020. Roberta Flack ra đi, để lại ảnh hưởng sâu rộng cho nhiều nghệ sĩ thế hệ sau, trong đó có George Michael, Lauryn Hill, Ariana Grande hay Lady Gaga … bà thành công trong cả hai vai trò : nhạc sĩ sáng tác cũng như người thể hiện lại ca khúc của nhiều nghệ sĩ khác như Carole King, Leonard Cohen, Gilbert Bécaud hay The Beatles. Với phong cách sang trọng kín đáo, lối diễn đạt mềm mại tinh tế, Roberta Flack trở thành một gương mặt tiên phong của trường phái « quiet storm » (giông bão tĩnh lặng), một nhánh của dòng nhạc R&B. Được đặt theo bài hát cùng tên, phát hành vào năm 1975 của Smokey Robinson, trường phái này thường đề cao các giai điệu du dương dịu dàng, gieo vào hồn người nghe những cảm xúc thoải mái nhe nhàng, như khi ta nằm nghe các chương trình kể chuyện đêm khuya. Giọng ca mượt mà của Roberta truyền tải trọn vẹn những cung bậc thăng trầm trong con tim khi đam mê nóng bỏng chết lịm dần trong dư âm. Đó là nghịch dụ của tiếng thầm trong đêm khuya quạnh vắng, cuồng phong soi bóng mặt hồ tĩnh lặng.…
 
Trọn cuộc đời, Herbert Léonard luôn hát tình ca tiếng Pháp, cho dù khi mới vào nghề, ông lại đam mê dòng nhạc Mỹ rhythm & blues. Nhờ vào chất giọng đầy nội lực, Herbert Léonard đã trở thành một tên tuổi sáng giá của làng nhạc Pháp những năm 1980. Giọng ca trầm ấm ấy vừa vĩnh viễn ra đi trong tuần này, hưởng thọ 80 tuổi. Theo nguồn tin từ phía gia đình, Herbert Léonard đã qua đời hôm Chủ nhật, 02/03/2025, tại bệnh viện Fontainebleau, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh ung thư phổi. Tên thật là Hubert Lœnhard, ông sinh trưởng tại thành phố Strasbourg và đã thành danh khá muộn vào năm 1981, ở tuổi 36, gần hai thập niên sau khi vào nghề. Sự nghiệp của Herbert Léonard bắt đầu vào những năm 1960. Giống như nhiều ca sĩ vào thời bấy giờ, ông tham gia phong trào nhạc trẻ chuyên phóng tác sang tiếng Pháp những bản nhạc ăn khách của Anh-Mỹ. Thời niên thiếu, ông từng khám phá Chuck Berry và Otis Redding, cho nên trong giai đoạn đầu, ông thích hát nhạc rhythm & blues, đi biểu diễn cùng với ban nhạc Les Lionceaux, hoặc là với nhóm The Jets, tên gọi này gợi hứng từ vở nhạc kịch « West Side Story ». Nhờ vào sự dìu dắt của ông Lee Hallyday, nhà quản lý đầu tiên của nam danh ca Johnny Hallyday, Herbert Léonard từng có cơ hội đi lưu diễn tại Nhật Bản với thần tượng nhạc trẻ Sylvie Vartan. Trong giai đoạn những năm 1965-1968, ông đã ghi âm ba album và bắt đầu trở nên nổi tiếng tại Pháp. Đang trên đà thành công, sự nghiệp của Herbert Léonard lại đột ngột bị gián đoạn, sau khi ông bị chấn thương trầm trọng một tai nạn giao thông. Ông đành phải xa ánh đèn sân khấu trong một thời gian dài. Sau nhiều cuộc giải phẫu chỉnh hình và gần hai năm điều trị, Herbert Léonard muốn tìm lại con đường ca hát, nhưng không còn thành công như trước. Vì vậy, vào năm 1973, ông quyết định giải nghệ, chuyển hẳn sang nghề viết báo. Ông trở thành một biên tập viên cho tạp chí Aviation Magazine, chuyên về ngành hàng không. Vào lúc Herbert Léonard tưởng chừng như đã an phận với nghề mới, cũng như với cuộc sống kín đáo bên gia đình, ông lại nhận được một cú điện thoại của nhà sản xuất kiêm tác giả Vline Buggy, người đã viết bài « Belles, belles, belles » cho Claude François. Bà đề nghị ông ghi âm một bài hát của một nhà soạn nhạc trẻ tuổi (Julien Lepers). Herbert Léonard nhận lời vì hai người vẫn giữ liên lạc với nhau cho dù ông đã ngưng đi hát trong hơn một thập niên. Khi vào phòng thu thanh, ông không nghĩ rằng nhạc phẩm « Pour le plaisir » (tạm dịch Cho trọn niềm vui) sẽ thành công rực rỡ. Nào ngờ bản nhạc trở thành bài hát ăn khách nhất năm 1981, lập kỷ lục số bán với hơn 2,5 triệu bản. Có thể nói là nhờ vào giai điệu này, mà sự nghiệp ca hát của Herbert Léonard lại hồi sinh, mở đường cho ông ghi âm nhiều bản nhạc ăn khách khác như « Amoureux Fous » song ca với Julie Pietri, « Puissance et Gloire » (Hùng mạnh và vinh quang) nhạc chủ đề của loạt phim truyền hình « Châteauvallon » hay bài « L'amour en héritage » (Gia tài tình yêu), người đầu tiên ghi âm bài này là nữ danh ca Nana Mouskouri. Sau hơn 10 năm thành công, sự nghiệp của Herbert Léonard lại bắt đầu lu mờ vào giữa những năm 1990 trở đi. Ông ít còn xuất hiện trước công chúng, ngoại trừ việc tham gia đoàn diễn viên Notre Dame de Paris (Nhà thờ Đức bà Paris), khi ông được mời thay thế vai diễn của ca sĩ Daniel Lavoie trong vở nhạc kịch ăn khách này. Cùng với đoàn kịch, ông đã đi lưu diễn trong vòng hai năm, ở Pháp cũng như ở nước ngoài. Trong suốt sự nghiệp, Herbert Léonard đã ghi âm 18 album phòng thu, ông chủ yếu hát nhạc tình và mãi đến năm 2014, ông mới tìm lại niềm đam mê đầu đời khi ghi âm trọn một album (Demi Tour / Quay lại) dành cho nhịp điệu rhythm & blues. Herbert Léonard lâm bệnh nặng lần đầu vào năm 2017, tưởng chừng đã được chữa lành 8 năm sau nhưng rốt cuộc vẫn không qua khỏi. Album phòng thu cuối cùng với tựa đề « Mise à jour » (Cập nhật) được phát hành năm 2016, vào lúc chất giọng trữ tình của ông còn khỏe, vẫn tha thiết lãng mạn với những bản cover nhạc tình hay nhất từ bài « Vous les Femmes » (Pauvres Diables) của Julio Iglesias cho đến « Et si Tu n'existais pas » của Joe Dassin. Giọng hát ấy bây giờ đã đi xa, nhưng trong tim giai điệu vẫn còn vang vọng. Giọng ca chung thủy với một thể loại, tình ca mãi hát trọn đời, chứ đừng hoài mong ngóng đợi, có ai nào biết lần cuối, chừng nào niềm vui mới tới.…
 
Nhắc tới Nicole Rieu, giới yêu nhạc nghĩ đến một trong những giọng ca trong sáng mượt mà nổi tiếng vào những năm 1970, hầu như cùng thời với Jeane Manson. Nhiều bài hát tiếng Pháp ăn khách của Nicole Rieu từng được đặt thêm lời Việt, chẳng hạn như những giai điệu « Ngất ngây bên anh » hay « Về đâu hỡi người » ... Sinh trưởng (1949) tại thành phố Chaumont vùng Haute-Marne, miền đông nước Pháp, Nicole Rieu từ thời còn nhỏ đã có nhiều năng khiếu âm nhạc. Cô khởi nghiệp ca hát vào giữa những năm 1960, thời Nicole gia nhập nhóm nhạc Les Spits, cho dù về mặt phong cách biểu diễn, cô không thiên về phong trào nhạc trẻ yéyé tại Pháp những năm 1960. Sau những bước đầu không mấy thành công với ban nhạc trẻ này, dịp may lại đến với Nicole Rieu vào năm 1969, khi giọng hát của cô tình cờ lọt vào tai của ông Lucien Morisse, lúc bấy giờ là giám đốc đài phát thanh Europe 1. Nhờ vào sự dìu dắt của người đã từng gây dựng sự nghiệp cho thần tượng Dalida, Nicole Rieu có cơ hội ký hợp đồng ghi âm đầu tiên trong đời và hợp tác với hãng đĩa Barclay. Sự nghiệp của Nicole Rieu thực sự cất cánh vào đầu thập niên 1970. Vào năm 1974, Nicole Rieu hợp tác với nhà soạn nhạc Jean-Pierre Goussaud để phát hành album đầu tiên của mình với tựa đề mang khá nhiều ý nghĩa là « Naissance » (Chào đời), album này thành công lớn về mặt thương mại và trong cùng một năm, Nicole Rieu tiếp tục cho ra mắt nhiều bản nhạc ăn khách, trong đó có nhiều giai điệu từng được dịch sang tiếng Việt như « Je m'envole » (Ngất ngây bên anh) hay « Ma maison près de l'eau » (Căn nhà bên dòng nước) do ca sĩ Khánh Hà ghi âm. Trên đà thành công này, Nicole Rieu được chọn làm gương mặt đại diện cho nước Pháp tại cuộc thi hát truyền hình châu Âu Eurovision năm 1975 với nhạc phẩm « Et bonjour à toi l'artiste » (Chào người nghệ sĩ) của tác giả Pierre Delanoë. Cho dù Nicole Rieu không giành giải nhất năm ấy nhưng cuộc thi này lại mở ra cho cô nhiều cánh cửa, chinh phục thêm nhiều khán giả nước ngoài. Sự nghiệp quốc tế của Nicole bắt đầu từ năm 1975 trở đi, ngoài việc ghi âm trong nhiều ngôn ngữ kể cả tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Ý, Tây Ban Nha và tiếng Nhật. Giong ca của Nicole Rieu vượt qua Đại Tây Dương, thành công tại Canada và tại Nam Mỹ nhờ những bài hát ghi âm bằng tiếng Tây Ban Nha. Thành công này mở ra giai đoạn thứ nhì trong sự nghiệp của cô ca sĩ người Pháp. Nicole Rieu quyết định ở lại Québec một thời gian để ghi âm với nhà soạn nhạc Paul Baillagon. Nhờ vào những nỗ lực hợp tác, Nicole Rieu đã giành được giải thưởng sáng tác Grand Prix de la Chanson với nhạc phẩm « La goutte d'eau » (Giọt nước), soạn theo giai điệu dân ca Ai Len « The foggy dew ». Sau gần 10 năm thành công với hãng đĩa Barclay, Nicole Rieu quyết định tạm ngừng đi hát. Sau khi sinh con đầu lòng, cô muốn giành thời gian cho gia đình, trong khi theo hợp đồng, cô phải đi biểu diễn thường xuyên ở nước ngoài. Dù xa ánh đèn sân khấu, Nicole Rieu vẫn tiếp tục sáng tác và ghi âm, giữ mối liên lạc với người hâm mộ và trở thành một giọng ca quen thuộc trong khối Pháp ngữ. Kể từ năm 1994 đến 2023 Nicole Rieu đã cho ra mắt 12 album, tham gia vào nhiều dự án sáng tác nhạc kịch và ca khúc thiếu nhi. Sau một thời gian vắng bóng sân khấu, Nicole Rieu xuất hiện trở lại những năm gần đây nhân vòng lưu diễn « Âge tendre et tête de bois » (Tuổi xanh cứng đầu khó bảo). Trong số những bài hát quen thuộc của Nicole Rieu, ngoài « Căn nhà bên dòng nước » (Ma maison au bord de l'eau) và « Ngất ngây bên anh » (Je m'envole), còn phải kể đến nhạc phẩm « En courant ». Đây là bản phóng tác tiếng Pháp của nhạc phẩm « Do you know where you're going to », một bài hát ban đầu được Thelma Houston ghi âm, nhưng sau đó trở nên phổ biến nhờ giọng ca của Diana Ross, bản nhạc này được chọn làm ca khúc chủ đề của bộ phim « Mahagony », trong đó Diana Ross đóng một trong những vai chính ... Trong tiếng Việt, bài này từng được tác giả Nhật Ngân phóng tác thành nhạc phẩm « Về đâu hỡi người » do Ngọc Lan trình bày. Ca sĩ Kiều Nga cũng có ghi âm bài này nhưng lại được ghi chép với một tựa đề khác là « Người yêu ơi ». Lời Việt thứ nhì là của ca sĩ kiêm tác giả Nguyễn Thảo, phóng tác thành nhạc phẩm « Rồi em sẽ đi về đâu ». Còn trong phiên bản tiếng Pháp, nhờ vào chất giọng rõ ràng trong sáng, Nicole Rieu tạo được thêm nhiều nét quyến rũ mơ màng, đưa người nghe nhẹ nhàng vào thế giới mộng du, say đắm dịu dàng.…
 
Cho dù tên tuổi của Patricia Carli có lẽ vẫn chưa quen thuộc lắm với công chúng, nhưng giới yêu nhạc Pháp chắc hẳn đã từng nghe qua những bản nhạc của tác giả này qua nhiều giọng ca nổi tiếng như Dalida hay Mireille Mathieu. Một số bài hát do Patricia Carli đồng sáng tác cũng đã được đặt thêm lời Việt chẳng hạn như những giai điệu « Tất cả cho anh » hay « Muôn đời thiết tha ». Tên thật là Rosetta Ardito, Patricia Carli sinh (năm 1938) tại thành phố Taranto, thuộc vùng Puglia miền nam nước Ý. Khi lớn lên, cô theo gia đình sang Bỉ định cư, nơi cha cô được tuyển làm thợ mỏ. Đến tuổi trưởng thành, Patricia bắt đầu đi hát, tham gia các liên hoan địa phương nhưng không cho bố mẹ hay biết. Bất chấp lời khuyên can của gia đình, cô quyết định rời nước Bỉ đến Pháp lập nghiệp. Thời gian đầu ở Paris tương đối khó khăn. Ban ngày, Patricia làm công việc rửa chén phụ bếp trong các quán ăn. Buổi tối, cô tham gia các buổi casting, ghi tên vào các cuộc thi hát với hy vọng ký được hợp đồng ghi âm điã nhạc. Dip may đến với Patricia Carli khi cô ngẫu nhiên gặp Nicole Barclay, vợ của nhà sản xuất nổi tiếng Eddie Barclay. Nhờ vào sự gửi gấm của hai vợ chồng Barclay, Patricia được giới thiệu với nhóm sáng tác của nhà sản xuất Léo Missir vào đầu những năm 1960. Sau vài lần ghi âm không thành công, ca sĩ Patricia Carli thành danh vào năm 1963 với nhạc phẩm « Demain tu te marries » (Ngày mai anh lên xe hoa) từng được ca sĩ Lê Thu Imbert Nguyễn phóng tác sang lời Việt. Trên đà thành công, Patricia Carli ghi âm bản nhạc Je suis à toi (Em thuộc về Anh). Đây là phiên bản phóng tác tiếng Pháp của nhạc phẩm tiếng Ý Non ho l’eta per amarti, từng đoạt giải nhất vào đầu năm 1964 nhân kỳ liên hoan ca nhạc thành phố San Remo. Đĩa hát thứ ba cũng ăn khách không kém mang tựa đề « Ce que tu es pour moi ». Bài này thường được ghi chép sai thành « Tout ce que tu peux être pour moi ». Đây cũng là một phiên bản tiếng Pháp từ tình khúc tiếng Ý « Tu si na cosa grande » của Domenico Modugno. Có lẽ cũng vì Patricia là người gốc Ý cho nên trong giai đoạn đầu sự nghiệp, cô thường hay chọn phóng tác những lời ca gần gũi nhất với mình. Bài này từng đặt thêm nhiều lời Việt. Lời đầu tiên của Julie Quang có tựa đề « Anh là tất cả » do Minh Xuân ghi âm. Lời thứ nhì là của tác giả Vũ Xuân Hùng, phóng tác thành nhạc phẩm « Muôn đời thiết tha » do ca sĩ Ngọc Lan trình bày. Đang trên đỉnh thành công, bất đồng lại nảy sinh giữa Patricia Carli với nhà sản xuất Léo Missir. Hai người đã sống chung với nhau trong nhiều năm, quan hệ tình cảm khi xấu đi ảnh hưởng đến sự hợp tác của họ. Vào đầu những năm 1970, Patricia Carli mới chuyển qua sáng tác cho các nghệ sĩ cùng thời, kể cả Dalida (Comme tu dois avoir froid), Mireille Mathieu (Donne ton coeur, donne ta vie), Christian Delagrange (Sans toi je suis seul) hay Daniel Guichard (La tendresse) …. Sau khi ly hôn, Patricia Carli ít còn gặp ông Léo Missir và chủ yếu hợp tác với các tác giả như Eddy Marnay hay Gérard Gustin. Cô thành công với những nhạc phẩm như « Pour la vie, l’éternité » hay « Vivre pour toi, mourir pour toi » (1974). Nhạc phẩm này từng được dịch sang tiếng Việt thành nhạc phẩm « Tất cả cho anh » do Kiều Nga trình bày. Tuy thành công nhờ soạn nhạc và đặt lời cho nhiều bài hát ăn khách, nhưng vào giữa những năm 1970, Patricia Carli lâm bệnh năng và buộc phải ngừng hẳn mọi công việc trong vòng 4 năm. Đến năm 1978, căn bệnh có dấu hiệu thuyên giảm nên Patricia cho phát hành ca khúc « L'homme sur la plage » (Cô đơn trên bãi biển) và một cách bất ngờ đĩa hát này lại gặt hái được nhiều thành công lớn. Nhưng niềm vui không được bao lâu. Chỉ vài năm sau, căn bệnh ung thư tái phát và kể từ đó, các sáng tác của nghệ sĩ này trở nên khan hiếm. Patricia Carli xa lánh hẳn ánh đèn sân khấu và ống kính truyền hình. Album cuối cùng của Patricia Carli được phát hành vào năm 2000, xen kẽ những bản nhạc nổi tiếng với một số bài hát mới. Nhân dịp này, cô đã nhận được giải thưởng dành cho những ngòi bút sáng tác xuất sắc của hiệp hội các tác giả Pháp Sacem. Patricia Carli nay đã về hưu và sống tại miền nam nước Pháp, ở vùng Roquebrune Cap Martin, gần Monte Carlo. Trong số các bài hát rất nổi tiếng của Patricia Carli có nhạc phẩm « Je n’pourrai jamais t'oublier ». Patricia đồng sáng tác bài này với tác giả trẻ tuổi người Bulgary Emil Dimitrov cho nữ danh ca Nicoletta vào năm 1970. Giai điệu này sau đó được tác giả Nhật Ngân phóng tác sang tiếng Việt thành nhạc phẩm « Mưa trên biển vắng », từng được nhiều nghệ sĩ ghi âm trong đó có Ngọc Lan, Như Quỳnh, Thùy Dung ..... Gương mặt của Patricia Carli có lẽ vẫn còn xa lạ với công chúng, nhưng các giai điệu lại rất quen thuộc với giới yêu nhạc Pháp. Cho dù người phải đi xa, nhưng tim vẫn còn tất cả, chỉ nghe một lần thoáng qua, muôn đời bỗng dưng thiết tha.…
 
Năm 2025 đánh dấu đúng 20 năm ngày Pierre Bachelet qua đời. Vào trung tuần tháng Hai 2025, hãng đĩa Sony Music cho phát hành một tuyển tập chọn lọc gồm các bài hát hay nhất của nam danh ca người Pháp. Trên album này, cũng có một bài hát chưa từng được phổ biến trên băng đĩa. Sinh thời, tên tuổi của Pierre Bachelet được gắn liền với nhiều bài hát khó quên. Những giai điệu như « Les corons », « Marionnettiste », « Embrasse la » hay « Écris moi » đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng bao thế hệ người hâm mộ. Các giai điệu này quen thuộc đến nỗi, chỉ cần những nốt nhạc đầu vang lên, người nghe có thể thuộc lòng được điệp khúc. Cách đây hai thập niên, vào ngày 15/02/2005, Pierre Bachelet đã qua đời ở tuổi 60, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh ung thư phổi. Để kỷ niệm hai mươi năm ngày giỗ của nam danh ca người Pháp, Sony Music cho xuất bản album mang tựa đề « Pierre Bachelet : Les grands classiques » (Những bài hát kinh điển của Pierre Bachelet). Được công bố vào ngày 14/02, tuyển tập những bài hát chọn lọc của Pierre Bachelet, còn giới thiệu trong phần cuối album một bài hát chưa được phổ biến mang tựa đề « Frérot, retrouvailles » (Ngẫu nhiên gặp lại). Phiên bản của bài hát này từng được Pierre Bachelet ghi âm vào giữa những năm 1990. Nam ca sĩ đưa bài này cho kỹ sư hòa âm của mình, để dành bài hát cho một dự án ghi âm album phòng thu trong tương lai. Vì một lý do nào đó, bài hát lại bị bỏ quên trong ngăn tủ và mãi đến hơn 20 năm sau, bài hát này mới được hoàn chỉnh và gửi đến người hâm mộ. Song song với việc phát hành tuyển tập trên CD và đĩa nhựa, còn có cuộn DVD bao gồm 14 video clip minh họa cho những bản nhạc nổi tiếng cũng như 9 đoạn video trích từ các đợt biểu diễn của Pierre Bachelet trên sân khấu, chủ yếu là tại nhà hát Olympia. Ngoài ra, nhiều tập nhạc phim sẽ được công ty Music On Vinyl tái bản trên đĩa nhựa, chủ yếu dành cho giới sưu tầm. Trong giới yêu nhạc, có lẽ nhiều người vẫn còn nhớ là Pierre Bachelet trước hết tốt nghiệp khoa điện ảnh, nhưng khi vào đời kiếm sống ông lại chọn nghề làm phim quảng cáo. Ông có thể sáng tác rất nhanh những giai điệu dễ lọt tai, dễ thuộc lòng. Pierre Bachelet thành danh ban đầu nhờ sáng tác và ghi âm nhạc phim. Giai điệu ăn khách đầu tiên của ông vào năm 1974 là nhạc phẩm « Mélodie d'amour » (Giai điệu tình yêu) ca khúc chủ đề của bộ phim « Emmanuelle », bộ phim cấm trẻ em dưới 18 tuổi của đạo diễn Just Jaeckin. Bản nhạc này từng được tác giả Phạm Duy phóng tác thành « Giai điệu tình yêu », có nơi còn ghi chép là « Tình ca Emmanuelle », còn tác giả Trần Kim Bằng chuyển thể bài này thành nhạc phẩm « Tinh đến bên đời ». Mãi đến hơn 5 năm sau khi thành công với nhạc phim, Pierre Bachelet mới thực sự lập kỷ lục số bán vào năm 1980 với album phòng thu thứ nhì « Elle est d'ailleurs ». Thành công của album này giúp cho Pierre Bachelet trở thành một trong những giọng ca ăn khách nhất với hàng loạt bản hit như « Les corons, Vingt ans, Partis avant tout dit, Écris moi » .... Đằng sau sự thành công vượt trội này, có sự hợp tác chặt chẽ dài lâu giữa Pierre Bachelet với tác giả Jean Pierre Lang. Cặp bài trùng này đã cho ra đời khoảng 180 ca khúc, trong đó có nhiều bản nhạc nổi tiếng viết riêng cho Pierre Bachelet. Thế nhưng, giai điệu quen thuộc nhất của hai tác giả này vẫn là nhạc phẩm « Elle est d'ailleurs », ca khúc chủ đề album cùng tên. Bài hát này thuộc vào hàng các giai điệu được ghi âm lại nhiều nhất, kể cả phiên bản gần đây của Julien Doré trên album đề tựa « Imposteur » (Kẻ mạo danh) hay của Amir với tay đàn cello Camille Bertholet. Trong tiếng Việt, bài hát này từng được tác giả Trọng Nghĩa chuyển thành nhạc phẩm « Em xa nghìn trùng » và từng được nhiều nghệ sĩ ghi âm lại như Ngọc Lan, Anh Tú, Việt Lãm, Lân Nhã …. Hai thập niên sau khi vĩnh viễn ra đi, nam danh ca Pháp Pierre Bachelet vẫn để lại trong lòng người hâm mộ hình ảnh của một nghệ sĩ dễ gần gũi hiền hòa, những giai điệu nồng đậm thiết tha, mà bao năm qua vẫn chưa bao giờ mờ nhạt phai nhòa.…
 
Nhắc đến ca sĩ người Bỉ Claude Michel, giới yêu nhạc thường hay nhầm lẫn với tác giả người Pháp Claude-Michel Schönberg đồng tác giả của hai vở nhạc kịch nổi tiếng « Những người khốn khổ » ( Les Misérables ) và « Miss Saigon » . Sự nhầm lẫn ở đây lại càng dễ hiểu, vì cả hai nghệ sĩ này đều cùng ăn khách với giọng ca của họ hầu như vào cùng một thời điểm, giữa những năm 1970. Xuất thân từ một gia đình người Ý định cư tại thị trấn Jupille (vương quốc Bỉ) cách thành phố Liège khoảng 70 cây số về phía nam, Claude Michel tên thật là Gianni Marzano. Từ thời còn nhỏ, ông đã có nhiều năng khiếu âm nhạc, cùng với một số thành viên trong gia đình, ông bắt đầu đi hát vào những ngày cuối tuần trong các quán nhạc ở thành phố Liège, ông khởi nghiệp hầu như cùng lúc với hai ca sĩ người Bỉ gốc Ý khác là Frédéric François và Claude Barzotti, cho dù tên tuổi của họ về mặt quốc tế chưa thể sánh bằng bậc đàn anh là Salvatore Adamo. Trái với nhiều nghệ sĩ cùng tuổi, Claude Michel ( Gianni Marzano) ngoài chất giọng và ngoại hình còn biết soạn nhạc. Chính với bản sáng tác đầu tay « Comme je t'aime » , ông đã thu hút sự chú ý vào năm 1973 của các nhà sản xuất tại liên hoan ca khúc tiếng Pháp Rose d'Or tại thành phố Antibes. Claude Michel (Gianni Marzano) thành danh tại Pháp một năm sau đó hầu như vào lúc một ca sĩ khác là Claude-Michel Schönberg lập kỷ lục số bán với nhạc phẩm « Le premier pas » từng được dịch sang tiếng Việt thành nhạc phẩm « Biết yêu lần đầu » . Từ năm 1974 trở đi và trong vòng một thập niên liền, Claude Michel (Gianni Marzano) ghi âm khá nhiều bài hát ăn khách tại Pháp, Thụy Sĩ và vương quốc Bỉ, chẳng hạn như bài « Mon amour, mon été » , (Tình em nắng hạ), « Chaque jour, je pense à toi » (Mỗi ngày lại nhớ ai), « Aime moi comme je t'aime » (Hãy yêu anh như anh yêu em)… Ông đương nhiên trở thành một gương mặt tiêu biểu của phong trào những ca sĩ đến từ Bỉ chuyên hát nhạc tình những năm 1970 bên cạnh các nghệ sĩ như Christian Vidal, Frédéric François, Christian Adam hoặc nhóm Crazy Horse, cho dù ca sĩ chính của nhóm này, Alain Delorme là người Pháp. Vào cuối những năm 1970, có lẽ để tránh gây nhầm lẫn với Claude-Michel Schönberg, ông quyết định đổi nghệ danh và ghi âm với tên mình là Gianni Marzano. Bản nhạc « Mal d’amour » (Tương tư) đánh dấu cho sự chuyển hướng này và mở ra giai đoạn thứ nhì trong sự nghiệp của ông, ngoài châu Âu, ông còn thành công với các đợt lưu diễn tại Canada, nam Mỹ và Liban… Sau hai thập niên thành công rực rỡ, sự nghiệp của Claude Michel (Gianni Marzano) bắt đầu bị lu mờ từ những năm 1990 trở đi, cho dù ông có ghi âm và phát hành một vài album nhưng không có tập nhạc nào ăn khách bằng những năm 1970. Có lẽ cũng vì thế, ông chuyển qua ngành kinh doanh nhà hàng từ năm 2001, ông mở quán ăn gia đình ở trung tâm thành phố Liège tên là Cucinella, rồi sau đó đổi tên thành Casa Marzano. Kể từ năm 2016, khi con trai ông lên làm chủ quán, thì lúc ấy ông mới nghĩ tới chuyện đi hát trở lại theo yêu cầu của giới hâm mộ. Trong suốt sự nghiệp, Claude Michel đã ghi âm 7 album với những sáng tác của mình và hát lại hơn 200 bài hát của nhiều tác giả khác. Nhân vòng lưu diễn năm 2023, ông mới tìm lại lượng fan hâm mộ đông đảo ở các nước như Ý, Bỉ, Thụy Sĩ, Pháp, Luxembourg hay Canada vẫn thường nghe các album tái bản của ông, cho dù ông đã vắng bóng sân khấu trong một thời gian khá dài, sau hơn 25 năm sự nghiệp. Trong số những giai điệu gắn liền với tên tuổi của Claude Michel, có nhạc phẩm « Sans Elle » từng được ghi âm vào năm 1973. Bài này sau đó đã được phóng tác nhiều lần sang tiếng Việt. Lời Việt đầu tiên là nhạc phẩm « Xa em rồi » của tác giả Phạm Duy từng được nhiều nghệ sĩ như Trung Hành hay Thế Sơn ghi âm. Lời Việt thứ nhì « Nếu vắng nàng » là của tác giả Kỳ Phát do nam danh ca Duy Quang trình bày. Còn nhạc phẩm « Je suis un Romantique » , cũng do Claude Michel (Gianni Marzano) phát hành vào năm 1974, từng được tác giả Khúc Lan chuyển sang lời Việt thành nhạc phẩm « Tôi người mơ mộng » và do nam ca sĩ Anh Tú ghi âm. Bài hát này gần đây được ca sĩ Thùy Dung trình bày lại trên sân khấu nhân đêm nhạc tưởng niệm 20 năm ngày giỗ của nam danh ca Anh Tú, được tổ chức vào cuối tháng 11/2023 tại Sài Gòn. Trong tim bao chặng đường xa, đồng hành khúc nhạc lời ca, về đây đem một chút quà, tình chưa phai tháng ngày qua...…
 
Nhắc đến Gina Tielman (nghệ danh là Gina T.), giới yêu nhạc nghĩ tới ngay một trong những giọng ca thành danh trên thị trường châu Âu vào đầu những năm 1990. Trong hai thập niên sự nghiệp, Gina T. đã ghi âm khá nhiều bản nhạc ăn khách như « Tokyo by night » hay « I don't like rainy days ». Riêng nhạc phẩm, « Tonight's so cold » từng có nhiều phiên bản phóng tác thành công, ngoài tiếng Đức còn có giai điệu lời Việt « Đêm nay em thấy cô đơn ». Sinh trưởng (năm 1960) tại Bussum, Hà Lan, Gina Tielman là con nhà nòi. Cô xuất thân từ một gia đình nghệ sĩ người gốc Indonesia đến châu Âu lập nghiệp từ năm 1963. Thân phụ của Gina (ông Ponthon Tielman) cùng với nhiều thành viên trong gia đình đã sáng lập ban nhạc The Tielman Brothers. Đây là ban nhạc song tịch Nam Dương Hà Lan đầu tiên dấn thân thành công vào làng nhạc quốc tế vào giữa những năm 1960. Họ là những nghệ sĩ tiên phong của dòng nhạc rock ở Hà Lan, sau đó trở nên nổi tiếng ở các nước nói tiếng Anh và nhất là tiếng Đức đầu thập niên 1970. Nhóm The Tielman Brothers khai phóng một thể loại âm nhạc sau này được gọi là Indo-rock, kết hợp hài hòa các tiết tấu Nam Dương (bắt nguồn từ dòng nhạc kroncong của Indonesia) với nhịp điệu Tây phương. Do lớn lên trong môi trường nghệ thuật của gia đình, cho nên từ thời còn nhỏ, Gina đã biết hát và học sáng tác. Cô bắt đầu tham gia biểu diễn trong các dàn đồng ca thiếu nhi cũng như đi hát tại các nhà thờ với ban hợp xướng phúc âm. Về mặt chuyên nghiệp cô tham gia vào nhóm sáng tác Adam Schairer và Peter B.Herrmann. Cô định cư lập nghiệp ở Đức sau khi thành hôn và lập gia đình với nhà sản xuất Adam Schairer vào năm 1998. Khi mới vào nghề với ca kúc « In my fantasy », cô chọn nghệ danh là Gina T. có lẽ cũng vì Gina không muốn mang dấu ấn nhạc rock của dòng họ Tielman, mà lại chọn khai thác dòng nhạc nhảy của châu Âu EuroDance, một trào lưu tiếp nối cho dòng nhạc pop new wave của thập niên 1980. Cơ hội may mắn đầu tiên thực sự đến với Gina vào năm 1990 khi nhạc phẩm « Tokyo by night » của cô (do Adam Schairer sản xuất) được phát hành trên thị trường quốc tế. Thành công bước đầu này mở đường cho Gina ghi âm nhiều bản nhạc ăn khách khác, chủ yếu với nhịp điệu trẻ trung sôi động. Ở đây, có thể thấy rõ ràng các luồng ảnh hưởng của Gina, chuyên kết hợp dòng nhạc disco của Abba, Bee Gees, Baccara, Gloria Gaynor với nhạc pop rock của Police, Queen, Bryan Adams cũng như một số nghệ sĩ khác …. Một trong những đặc điểm của nhóm sáng tác cho Gina T. vẫn là pha trộn hòa quyện nhạc dance với một chút âm thanh châu Á, như thể để nhắc nhở nét duyên dáng của cô ca sĩ người Hà Lan gốc Indonesia. Đó là trường hợp của các nhạc phẩm « Tokyo by night, Sayonara, Little Butterfly » cũng như nhạc phẩm « Lady Saigon », ca ngợi vẻ đẹp về đêm của thành phố Sài Gòn, phát hành vào năm 2011 trên album mang tựa đề « Love will survive ». Trong số những bản hit quan trọng nhất của Gina T. không chỉ có những nhịp điệu hấp dẫn lôi cuốn mà còn có nhiều bản nhạc tình theo kiểu pop ballad, chẳng hạn như các nhạc phẩm « Sail over the seven seas, In my fantasy hay Tonight's so cold ». Tuy không phải là những bài hát dành cho sàn nhảy, nhưng lại rất ăn khách nhờ giai điệu nhẹ nhàng lối hòa âm tươi sáng. Được nhóm sáng tác Adam Schairer và Peter B.Herrmann phát hành vào năm 1991, nhạc phẩm « Tonight's so cold » Đêm sao buốt lạnh (còn có tiếu tựa Inside my room) sau khi thành công trong tiếng Anh còn cho ra đời nhiều bản phóng tác ăn khách trong nhiều thứ tiếng khác. Chẳng hạn như bài « (Ce soir) Je t'aime mon amour » tuy có tựa đề tiếng Pháp nhưng chủ yếu là một ca khúc tiếng Đức, do nữ ca sĩ Claudia Jung ghi âm vào năm 1994. Phần nhạc đệm của bài này là do tay đàn dương cầm người Pháp Richard Clayderman thực hiện và có lẽ cũng vì thế bài hát tiếng Đức này sau đó được đặt thêm lời tiếng Pháp. Còn trong tiếng Việt, tác giả Khúc Lan từng phóng tác nhạc phẩm « Tonight's so cold » thành giai điệu « Đêm nay em thấy cô đơn ». Đã có rất nhiều nghệ sĩ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại như Lưu Bích, Khánh Hà, Thanh Hà, Bích Thuần, Kiwi Ngô Mai Trang, Hoàng Chi, Đình Bảo, Hồ Quang Hiếu đều từng ghi âm bản nhạc này : Đêm nay căn phòng buốt lạnh, không còn chiếc bóng trên tường, người đi cho bao sầu thương, tràn về mùa đông hiu quạnh, trong hồn bão tuyết chưa tạnh, trái tim băng giá ngập đường...…
 
Mỗi lần nhắc tới nhạc sĩ Giorgio Moroder, giới yêu nhạc nghĩ đến ngay một trong những bậc thầy của dòng nhạc pop điện tử, người đã làm nên tên tuổi của nữ hoàng disco Donna Summer. Nhưng ít ai nhớ rằng, Giorgio Moroder từng soạn những bản nhạc phim nổi tiếng như giai điệu thôi miên của Midnight Express (1978) hay ca khúc chủ đề của bộ phim Top Gun (1986) với Kelly McGillis và Tom Cruise trong vai chính. Mang tựa đề « Take my breath away », bài hát này do nhóm Berlin trình bày, khi được chọn làm nhạc chủ đề cho bộ phim Top Gun, đã nhanh chóng trở thành một trong những tác phẩm nhạc phim ăn khách nhất từ trước đến nay. Thành công vượt trội của phim Top Gun giúp cho ca khúc cất cánh bay cao, đi vòng quanh thế giới. Một thành tích ít có gì sánh bằng cho dù Lady Gaga được mời ghi âm « Hold my hand » ca khúc chủ đề của tập nhì : Top Gun Maverick. Đằng sau sự thành công của bài hát, có sự hợp tác chặt chẽ giữa hai tài năng thuộc vào hàng cao thủ. Giorgio Moroder giỏi hòa âm soạn nhạc, còn Tom Whitlock chuyên đặt lời. Cặp bài trùng này (nhóm sáng tác) đã cho ra đời nhiều bản nhạc ăn khách, trong đó có « Danger Zone » viết cho Kenny Loggins (Top Gun) và « Meet me halfway » soạn cho bộ phim « Over the top » với Sylvester Stallone trong vai chính, nhưng không có bài nào của nhóm sáng tác này lập kỷ lục số bán vào năm 1986 như nhạc phẩm « Take my breath away », giúp cho Berlin trở thành một trong những nhóm tiêu biểu của dòng nhạc pop những năm 1980. Trả lời phỏng vấn tạp chí The Sunday Express, ca sĩ chính của nhóm Terri Nunn cho biết là nhóm Berlin đã hình thành từ những năm 1970 và đi biểu diễn trong hơn một thập niên liền, và đi biểu diễn trong hơn một thập niên liền. Trong lúc cả nhóm đang thực hiện phần ghi âm album thứ ba, thì nhà soạn nhạc kiêm sản xuất Giorgio Moroder, người từng làm việc với David Bowie và Blondie, ngỏ lời mời nhóm này ghi âm cho album nhạc phim Top Gun. Chỉ có điều là « Take my breath away » thuộc vào dạng power ballad, khúc nhạc tình với sức cuốn hút dũng mãnh, trong khi nhóm Berlin thời bấy giờ chủ yếu chơi nhạc rock indie. Nếu như ca sĩ chính Terri Nunn hưởng ứng một dự án như vậy, xem đây là cơ hội để tạo thêm danh tiếng cho ban nhạc, thì ngược lại nhạc sĩ John Crawford, tay đàn chính kiêm thành viên sáng lập ban nhạc lại không thích các bản nhạc mà anh cho là « thương mại », sang tác theo xu hướng thị trường. Theo John Crawford, đừng vì chuyện tiền bạc mà ghi âm theo đơn đặt hàng, vì đó không phải là hướng đi tốt nhất cho ban nhạc. Nhóm Berlin chủ trương thu thanh những sáng tác của họ, chứ không hát nhạc của người khác. Thế nhưng, ban nhạc lại nhượng bộ trước áp lực từ phía hãng đĩa và các nhà sản xuất : nhóm Berlin có thể hoàn tất album phòng thu thứ ba với điều kiện thu bài hát cho nhạc phim Top Gun. Kết quả là «Take my breath away » lập kỷ lục số bán với hơn 3 triệu bản, giành lấy hạng đầu thị trường Hoa Kỳ cũng như các nước châu Âu, hạng nhì tại Úc, Nam Phi hay Canada ….. Có khá nhiều nghệ sĩ nổi tiếng đã ghi âm lại bài hát này, kể cả Diana Ross Will Young và nhất là Jessica Simpson vào năm 2004 nhân dịp tái bản album « In this skin » của cô. Jessica Simpson cho biết cô rất yêu thích bài này kể từ lần đầu tiên khi được nghe giai điệu trong bộ phim « Top Gun », đến nổi cũng như nhiều cặp uyên ương khác cô đã chọn bài này nhân lễ đính hôn. Take my breath away của nhóm Berlin giành được giải Oscar năm 1986 trong hạng mục cho bản nhạc gốc hay nhất, đánh bại « Glory Of Love » của Peter Cetera ghi âm cho tập nhì của bộ phim The Karate Kid. Trên đà thành công bài hát này sau đó đã được phóng tác sang 12 thứ tiếng, kể cả tiếng Hoa và tiếng Nhật. Trong tiếng Việt bài này có khá nhiều phiên bản khác nhau : Lời đầu tiên là « Dìu Vào Tình Yêu » của ca sĩ Ngọc Huệ, lời thứ nhì « Tình yêu hững hờ » qua phần ghi âm của ca sĩ Nhã Phương. Lời thứ ba là của tác giả Khúc Lan, phóng tác thành nhạc phẩm « Nụ hôn xin hãy trao », từng được khá nhiều nghệ sĩ như Lâm Thúy Vân hay Kiều Nga ghi âm lại. Hầu hết các bản nhạc phim ăn khách trong những năm 1980 đều là những giai điệu có tiết tấu sôi động dồn dập (Flashdance, Fame Footloose, Mad Max III, Highlander, Eye of the Tiger …..) có lẽ cũng vì đó là xu hướng sáng tác thịnh hành vào thời bấy giờ. Về điểm này, à « Against all odds » của Phil Collins, « The Time of my Life » trong phim Dirty Dancing hay « Take my breath away » có thể được xem như những trường hợp ngoại lệ. Nhờ vào tài nghệ hoà âm, Giorgio Moroder đã tạo ra một nhịp điệu khác thường và âm thanh mới lạ cho bản ballad này, âm thanh lớp dày nhưng vẫn làm nổi bật được giọng hát của ca sĩ chính. Bản hòa tấu không lời khi được dùng làm nhạc nền phần đệm cũng giúp cho hình ảnh thêm mạnh mẽ lôi cuốn trong bộ phim Top Gun. Tựa như một con dao hai lưỡi, thành công củaTake my breath away lại gây ra nhiều mối bất đồng sâu đậm trong ban nhạc Berlin. Ca sĩ chính Terri Nunn vui mừng khi bản ballad đã mang lại cho nhóm sự thành công trên thị trường quốc tế tạo thêm cơ hội cho nhóm này đi lưu diễn trên toàn thế giới. Ngược lại, thành viên sáng lập John Crawford lại không mấy hài lòng, vì thành công vượt bực sáng ngời của Take my breath away làm lu mờ hẳn các sáng tác của nhóm. Rốt cuộc sau hơn một năm đi biểu diển để quảng bá cho Take my breath away, trong lúc người hâm mộ còn thổn thức đắm say, nào ngờ ban nhạc Berlin đành phải chia tay.…
 
Mỗi lần nhắc tới ca sĩ kiêm tác giả Pierre Bachelet, giới yêu nhạc thường nghĩ đến ngay bài hát quen thuộc nhất của ông là « Elle est d'ailleurs » (Em xa nghìn trùng). Nhưng bên cạnh những bài hát nổi tiếng với giọng ca của mình, Pierre Bachelet còn từng soạn nhạc cho nhiều nghệ sĩ khác, đó là trường hợp của Véronique Jannot với giai diệu « Si t'as pas compris », từng được phóng tác sang tiếng Việt thành nhạc phẩm « Tiếc nhớ cuộc tình ». Sinh trưởng tại thành phố Annecy, vùng Haute-Savoie, Véronique Jannot ban đầu là một diễn viên rồi sau đó chuyển sang nghề ca hát. Vào nghề đóng phim từ năm 15 tuổi, cô thực sự nổi tiếng 5 năm sau nhờ bộ phim truyền hình nhiều tập « Pause Café ». Thành công bước đầu này thu hút sự quan tâm của các nhà sản xuất điện ảnh. Nhờ vào sự dìu dắt của ngôi sao màn bạc Pháp Alain Delon, Véronique Jannot có cơ hội chinh phục màn ảnh lớn, đóng vai nữ chính bên cạnh thần tượng Pháp Alain Delon trong bộ phim « Le Toubib » (Bác sĩ quân y). Trong vòng gần một thập niên sau đó, từ năm 1978 đến năm 1987, Véronique Jannot xuất hiện trong nhiều bộ phim Pháp quan trọng …. trong đó có tác phẩm « La dernière image » (Hình ảnh cuối cùng) từng được chọn đi tranh giải Cành co vàng tại Liên hoan Cannes năm 1986. Có thể nói là trước khi chuyển sang nghề ca hát, gương mặt của Véronique Jannot đã trở nên khá quen thuộc với công chúng Pháp nhờ vai diễn trong loạt phim truyền hình « Pause Café ». Trên đà thành công, giới sản xuất mới nghĩ tới chuyện mời Véronique thu thanh các bản nhạc chủ đề của bộ phim nhiều tập. Cô đồng ý hợp tác với điều kiện, cô được toàn quyền đặt lời cho bài hát. Thành công của bản nhạc này tạo cơ hội cho Véronique ký hợp đồng ghi âm đầu tay trong vòng 5 năm. Cô tiếp tục đặt lời bài hát và cho ra mắt nhiều giai điệu ăn khách. Chính trong giai đoạn này, cô có dịp hợp tác nhiều lần với nhóm sáng tác của Pierre Bachelet, điển hình với các nhạc phẩm « Ma repentance » và nhất là « J'ai fait l'amour avec la mer ». Vào lúc bấy giờ, Pierre Bachelet đang thành công rực rỡ trong làng nhạc Pháp. Sau khi lập kỷ lục số bán cuối năm 1980 với nhạc phẩm « Elle est d'ailleurs » (phiên bản phóng tác tiếng Việt là Em xa nghìn trùng) Pierre Bachelet được mời soạn nhạc cho nhiều giọng ca nữ ăn khách thời ấy, trong số này có Dalida, Jane Birkin hay Nicole Croisille …. Vào năm 1985, ông sáng tác một giai điệu mà ban đầu được dành cho nhạc phim, nhưng khi được tặng cho Véronique Jannot lại trở thành nhạc phẩm « Si t'as pas compris » (Nếu anh vẫn chưa hiểu). Sự nghiệp ca hát của Véronique Jannot kéo dài trong hơn một thập niên, sau tác giả Pierre Bachelet, cô lại tiếp tục thành công nhờ hợp tác với bạn đời của cô là nhạc sĩ trứ danh Laurent Voulzy với nhiều bản nhạc ăn khách như « Aviateur » hay « Désir, Désir ». Đang trong giai đoạn thành công, Véronique Jannot lại gặp bất đồng với nhà sản xuất Claude Carrère. Một khi hết hợp đồng, sự nghiệp ca hát của cô bị lu mờ từ đầu thập niên 1990. Trong những năm sau đó, cô bớt di hát và nối lại với nghề đóng phim truyền hình, viết sách, đọc truyện thiếu nhi .... Mãi đến năm 1998, tức gần một thập niên sau, Pierre Bachelet mới thuyết phục được Véronique Jannot trở lại phòng thu để ghi âm một số nhạc phẩm mới, nhưng không có bài nào ăn khách bằng những bài hát đầu tiên, đánh dấu sự hợp tác giữa hai nghệ sĩ này. Về nội dung, có thể nói là nhạc phẩm « Si t'as pas compris » (Nếu anh vẫn chưa hiểu) có nhiều nét gần giống với « Je t'oublie pas » (Không thể quên anh) của Corynne Charby, nhất là trong cách dùng ngôn từ phủ định nhưng theo văn nói thay vì văn viết, để tạo thêm sự gần gũi với người nghe. Khi được đặt thêm lời Việt, bản nhạc này được tác giả Phạm Duy phóng tác thành nhạc phẩm « Tiếc nhớ cuộc tình », thành công nhờ các bản ghi âm của danh ca Ngọc Lan và gần đây hơn nữa là của ca sĩ Thùy Dung : Lẽ gì người vẫn chưa hiểu, tim ta chỉ một tình yêu. Cớ chi đắm say quá đỗi, nên quên mọi thứ trên đời. Làn môi hôn tóc rối bời, hương tình xõa nhẹ chăn gối.…
 
Michael Learns To Rock, ban nhạc Đan Mạch chiếm lĩnh trái tim hàng triệu người hâm mộ châu Á nhưng gần như không có tiếng tăm tại châu Âu hay Mỹ. Nhóm nhạc có kỳ tích mà nhiều nghệ sỹ phải nể phục: 1 tỷ lượt xem trên Youtube, 350 triệu nghe trên Spotify, 11 triệu đĩa hát tiêu thụ trên toàn cầu. Thời kỳ thành lập Ban nhạc Michael Learns to Rock (MLTR) thành lập vào năm 1988 tại thành phố Arhus, Đan Mạch. Lúc đó, ca sỹ chính Jasha Richer lên ý tưởng thành lập ban nhạc với các bạn học phổ thông và mời tay trống Kare Wanscher tham gia. Họ nhận thấy hạn chế của bộ đôi nên chiêu mộ thêm tay guitar, Mikkel Lentz và cây bass Soren Masden. Tại thời điểm đó, Jasha đã sở hữu một số bài hát anh tự sáng tác. Nhóm đã có buổi biểu diễn đầu tiên tại Rock Grand Prix và festival âm nhạc mùa hè Aarhus Outdoor Festival tại thành phố quê hương. Cho dù lượng khán giả rất khiêm tốn, may mắn mỉm cười với họ khi tờ báo địa phương đánh giá là nhân tố tài năng mới. Đồng thời, nhóm lọt vào mắt xanh của thành viên Ban giám khảo, Jens Peter Andersen. Ông đã trở thành quản lý của nhóm để giúp nhóm có album phòng thu đầu tay năm 1991. Album cùng tên, lọt vào bảng xếp hạng Đan Mạch và ít lâu sau chiếm lĩnh thiện cảm của khán giả châu Á nhờ ca khúc The Actor (Diễn viên) . Riêng tại Indonesia, album này tiêu thụ tới 25.000 bản và trở thành hiện tượng tại quốc gia Hồi giáo. Thành công rực rỡ thập niên 90 2 năm sau, album phòng thu tiếp theo, Colours(Sắc màu) năm 1993, chính thức làm bệ phóng cho danh tiếng ban nhạc lan rộng khắp Châu Á. Ba ca khúc Sleeping Child, 25 Minutes, Out of the blues trở thành thỏi nam châm khổng lồ với khán giả Châu Á. Các bản hit nói trên đều theo đuổi phong cách soft-rock, ballad (tình ca) theo khuôn mẫu bản nhạc pop truyền thống (2 khổ, 1 điệp khúc). Nội dung đề cập về tình yêu, sự đời chờ và mất mát trong tình yêu. Đặc biệt, nhóm sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh rất đơn giản, câu ngắn ngọn và giản lược. 25 Minutes (Muộn 25 phút) là ví dụ sinh động của câu chuyện tình tay ba. Họ kể một câu chuyện tình yêu giản dị có phần ngây ngô : yêu đơn phương và đợi chờ. Phải chăng vì thế gu kể chuyện giản đơn này giúp họ lại gần văn hóa khán giả châu Á nhiều hơn ? I find her standing in front of the church, The only place in town where I didn't search, She looks so happy in her wedding dress, But she's crying while she's saying this, Boy I missed your kisses all the time but this is Twenty five minutes too late . Tôi thấy cô ấy đứng trước nhà thờ, Nơi duy nhất trong thị trấn tôi đã không tìm kiếm, Cô ấy trông hạnh phúc trong chiếc váy cưới, Nhưng cô ấy khóc khi nói điều này : Em đã lỡ nụ hôn của anh nhưng lần này anh đã muộn quá 25 phút. Âm nhạc pop khuôn mẫu không theo xu thế Khác với các ban nhạc cùng thời, MLTR không chạy theo xu thế và cũng không đổi mới bản thân. Họ trung thành với khuôn mẫu soft-rock, pop ballad suốt hơn 30 năm tồn tại. Bộ tứ Đan Mạch chịu ảnh hưởng lớn từ Elton John, The Beatles, Rolling stones, ABBA, Bee Gees. Các nghệ sỹ tên tuổi đều chú trọng nội dung, chất lượng âm nhạc và ca từ. Vì vậy, phần ca từ của MLTR rất chau chuốt và có câu chuyện rõ ràng. Có ý kiến cho rằng nhóm chịu ảnh hưởng từ Michael Jackson nhưng họ luôn phủ nhận điều đó. Tuy nhiên, nội dung bài hát không có tính ẩn dụ, triết lý sâu sắc như các nghệ sỹ họ chịu ảnh hưởng. Trưởng nhóm Jascha chủ yếu sáng tác trên piano sau đó tay guitar Mikkel sẽ phát triển thêm, chỉnh sửa để cho ra sản phẩm cuối cùng. Theo Mikkel, âm nhạc MLTR không theo thể loại nào ngoại trừ âm thanh pop rất kinh điển. Phần lời chính (verse) gồm 1 hoặc 2 khổ thơ, sau đó phần điệp khúc có cao trào mạnh mẽ về giai điệu cũng như nhịp điệu. Các bản hit như That’s why you go away, Paint my love, Someday đều chế biến theo công thức này. Hơn thế, nhóm còn chăm chút đoạn solo nhạc cụ chủ yếu guitar hay keyboards vào phần chuyển bài. Chủ đích này khiến cho bài hát mềm mại và êm dịu, nhưng không hợp gu khán giả Anh, Mỹ do bố cục kém gọn gàng, thiếu cao trào mãnh liệt. Tình yêu của khán giả C hâu Á Một số tạp chí âm nhạc đã tìm hiểu nguyên nhân MLTR hâm mộ ở Châu Á đến vậy. Một trong số câu trả lời gây ngạc nhiên nhất: Karaoke. Văn hóa karaoke rất thịnh hành tại các nước Đông Nam Á như Philipinnes, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. Các ca khúc MTLR làm mưa làm gió theo phong trào karaoke không có gì lạ lẫm. Giai điệu dễ nghe, ca từ đơn giản, nên người hâm mộ dễ dàng thấm nhuần câu chuyện tình yêu. Phần lớn nhạc beat các bài hát tương đối giống nhau nên thể hiện qua karaoke rất thuận lợi. I’m not an actor, I’m not a star, And I don’t even have my own car, But I’m hoping so much you’ll stay, That you will love me anyway. Anh không phải là diễn viên, Anh không phải là ngôi sao , Anh không có xe hơi riêng, Nhưng anh hy vọng rằng em sẽ ở bên anh, Và bất chấp thế, em sẽ yêu anh. Ngoài ra, Indonesia, đất nước đông dân thứ 4 thế giới, có lẽ là nơi khởi nguồn cho cơn sốt MLTR lan rộng châu Á. Bản hit The Actor (Diễn viên) leo lên hạng 1 tại Indonesia nhờ người quản lý hãng Aquarius Musikindo, Agus Syarif Hidaya. Trong khi các công ty đối thủ phát hành album nhạc của siêu sao Bon Jovi, Madonna, hãng đĩa này quyết định tung ra sản phẩm mới lạ MLTR. Ban nhạc bắt đầu lưu diễn Châu Á từ năm 1994 trở thành ngôi sao sáng chói tại lục địa này, từ Cam Bốt cho tới nơi xa xôi như Papua New Guinea. Âm nhạc dễ nghe kết hợp ca từ ủy mị, hơi buồn tẻ, nhân vật trong câu chuyện của họ ngây ngô, chất phác. Sự cộng hưởng các yếu tố này có lẽ chiếm lĩnh thiện cảm với khán giả Châu Á nhờ sự gần gũi văn hóa. Ban nhạc đã trải qua nhiều chông gai để tới miền đất hứa. Họ từng bị từ chối hợp đồng ghi âm tại Anh do ca từ quá đơn giản. Họ giành hợp đồng tại Mỹ nhưng hãng đĩa lại sớm phá sản. Album thứ hai không được đón nhận tại Đan Mạch do trào lưu pop/soft-rock thoái trào. Khán giả Châu Á trở thành “thiên thần hộ mệnh” cho nhóm nhạc với 10 album phòng thu. Hiện tại, nhóm chỉ còn 3 thành viên, do tay bass Søren Madsen rời nhóm theo đuổi sự nghiệp solo. Ban nhạc thổ lộ họ thực sự trúng độc đắc tại Châu Á. Tình yêu từ khán giả Châu Á mang đến cho họ cuộc sống sung túc tại Đan Mạch, một quốc gia vô cùng đắt đỏ. Quả thực, âm nhạc của MLTR còn đắt hơn thế nhờ tích lũy giá trị hơn ba thập kỷ ! (Theo New York Times , Wikipedia , All Music )…
 
Loading …

Ласкаво просимо до Player FM!

Player FM сканує Інтернет для отримання високоякісних подкастів, щоб ви могли насолоджуватися ними зараз. Це найкращий додаток для подкастів, який працює на Android, iPhone і веб-сторінці. Реєстрація для синхронізації підписок між пристроями.

 

icon Daily Deals
icon Daily Deals
icon Daily Deals

Короткий довідник

Слухайте це шоу, досліджуючи
Відтворити